Điểm b khoản 1 điều 51 bộ luật hình sự

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ‘Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả’ theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 51 bộ luật hình sự trên thực tế vẫn gặp nhiều vướng mắc do BLHS không quy định giá trị tài sản khắc phục là bao nhiêu. Hãy cùng Luật Rong Ba tìm hiểu kỹ hơn qua bài viết dưới đây.

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là gì?

Pháp luật Hình sự không đưa ra khái niệm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là gì, dưới góc độ học thuật thì tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được hiểu là tình tiết làm cho mức độ nguy hiểm của trường hợp phạm tội cụ thể của mỗi loại tội giảm đi so với trường hợp bình thường. Từ đó có thể hiểu tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là tình tiết của vụ án hình sự liên quan đến việc giải quyết trách nhiệm hình sự phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, khả năng cải tạo, giáo dục người phạm tội cũng như hoàn cảnh của họ.

Những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định trong Bộ luật Hình sự hoặc do Tòa án xác định có ý nghĩa làm cho mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội giảm xuống một cách đáng kể và trách nhiệm hình sự của người phạm tội được giảm nhẹ.

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là căn cứ để Tòa án cân nhắc, xem xét việc áp dụng hình phạt theo hướng nhẹ hợp đối với người phạm tội và các tình tiết này ảnh hưởng đến việc quyết định hình phạt của Tòa án.

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:

“Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hạihoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luậtcủa nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.

Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.“

Hướng dẫn điểm b khoản 1 điều 51 bộ luật hình sự

Mục 1 Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn các trường hợp được áp dụng tình tiết tại điểm b khoản 1 điều 51 bộ luật hình sự người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả:

Cũng được áp dụng tình tiết “Người phạm tội tự nguyện sữa chữa bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả” nếu thuộc các trường hợp sau đây:

Bị cáo là người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 15 tuổi khi phạm tội và cha mẹ của họ đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra;

Bị cáo là người từ đủ 15 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi khi phạm tội và cha mẹ của họ đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nếu bị cáo không có tài sản.

Bị cáo (không phân biệt chưa thành niên hay thành niên) hoặc cha mẹ của bị cáo chưa thành niên đã tự nguyện dùng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra nhưng người bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối nhận, nếu số tiền, tài sản đó đã được giao cho cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án hoặc cơ quan có thẩm quyền quản lý để thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo.

Bị cáo (không phân biệt chưa thành niên hay thành niên) hoặc cha mẹ của bị cáo chưa thành niên xuất trình được chứng cứ chứng minh là họ đã tự nguyện dùng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhưng người bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối nhận và họ đã đem số tiền, tài sản đó về nhà cất giữ để sẵn sàng thực hiện việc bồi thường khi có yêu cầu.

Bị cáo không có tài sản để bồi thường những đã tích cực tác động đề nghị cha, mẹ hoặc người khác (vợ, chồng, con, anh, chị, em, bạn bè), sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả và những người này đã thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra;

Bị cáo không có trách nhiệm sửa chữa, bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra (ví dụ: việc bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ) những đã tự nguyện dùng tiền, tài sản của mình để sữa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả hoặc đã tích cực tác động đề nghị cha, mẹ hoặc người khác sữa chữa bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả (nếu bị cáo không có tài sản để bồi thường) và những người này đã thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.

Đối với các trường hợp hướng dẫn tại điểm đ và e tiểu mục 1.1 Mục 1 này mà bị cáo không có việc tác động, đề nghị cha, mẹ hoặc người khác sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, nếu những người này đã tự nguyện sửa chữa, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra thì bị cáo chỉ được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

điểm b khoản 1 điều 51 bộ luật hình sự
điểm b khoản 1 điều 51 bộ luật hình sự

Theo quy định trên thì có thể hiểu quy định này như sau:

Theo điểm b khoản 1 điều 51 bộ luật hình sự quy định người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả, có thể chia ra các trường hợp sau:

+ Người phạm tội tự lấy tài sản của mình bồi thường thiệt hại.

+ Người phạm tội tích cực tác động người thân bồi thường.

+ Người phạm tội từ đủ 14 đến dưới 15 tuổi thì cha mẹ có trách nhiệm bồi thường.

+ Người phạm tội từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi: nếu không có tài sản thì cha mẹ có thể bồi thường thay họ.

+ Người phạm tội chủ động bồi thường nhưng người bị hại không nhận, nên họ chủ động giao cho cơ quan tiến hành tố tụng.

+ Người phạm tội chủ động bồi thường nhưng người bị hại không nhận, họ đem về nhà cất giữ nhưng phải có chứng cứ chứng minh.

+ Người phạm tội không có trách nhiệm bồi thường nhưng đã chủ động bồi thường.

Lưu ý: trường hợp người phạm tội không tích cực tác động người thân bồi thường mà người thân vẫn bồi thường thì họ được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

Ví dụ: Ông A phạm tội cố ý gây thương tích cho bà B gây thương tích 20%, Bà B yêu cầu ông A bồi thường viện phí và những ngày không làm việc là 50 triệu đồng. Ông A có thể được xem xét tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội tự nguyện sữa chữa bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quảtại điểm b khoản 1 điều 51 bộ luật hình sự nếu:

– Ông A tự lấy tài sản của mình bồi thường các chi phí khám chữa bệnh và tổn thất khác cho bà B 50 triệu đồng.

– Ông A không có khả năng nên đã tác động cha mẹ mình bồi thường cho bà B 50 triệu đồng và họ đã bồi thường.

– Nếu trong trường hợp bà B không muốn nhận tiền bồi thường mà ông A vẫn mang đến và lưu lại chứng cứ.

– Nếu trong trường hợp bà B không muốn nhận tiền bồi thường mà ông A đem tiền bồi thường giao cho cơ quan tiến hành tố tụng.

Một số vấn đề chung về sửa chữa, bồi thường thiệt hại và khắc phục hậu quả

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) là tình tiết có trong một vụ án cụ thể, theo đó sẽ làm giảm trách nhiệm hình sự của người phạm tội khi lượng hình. Việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước. Tình tiết “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” là tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS); đây là trường hợp người phạm tội đã gây ra thiệt hại, tức là thiệt hại đã thực tế xảy ra nhưng người phạm tội đã sửa chữa, bồi thường những thiệt hại do mình gây ra cho bên bị thiệt hại hoặc đã tự nguyện khắc phục hậu quả của tội phạm.

Sửa chữa, bồi thường hoặc khắc phục là ba hành vi có nội dung khác nhau điều chỉnh ba hoạt động khác nhau của người phạm tội nên có thể nói điểm b khoản 1 Điều 51 quy định tới 3 tình tiết giảm nhẹ chứ không phải là một tình tiết giảm nhẹ; nhưng tính chất của các tình tiết này có nét tương đồng nhau về bản chất nên được quy định trong cùng một điểm để áp dụng cho người phạm tội.

Sửa chữa là sửa lại, chữa lại những tài sản đã bị hư hỏng do hành vi phạm tội gây ra. Ví dụ: Sửa lại điện thoại, chiếc xe bị hỏng; sửa lại chiếc bàn, chiếc ghế bị gãy…

Bồi thường là đền bù bằng tài sản cho những thiệt hại mà tội phạm gây ra. Ví dụ: Một người đã trộm cắp chiếc điện thoại bán lấy tiền, khi vụ án bị phát hiện, chiếc điện thoại đó không thu hồi lại được, người phạm tội đã tự nguyện trả cho chủ sở hữu một khoản tiền để đền bù chiếc điện thoại. Chỉ những gì không còn nữa mới đặt vấn đề bồi thường và cũng chỉ bồi thường được những thiệt hại về vật chất chứ không thể bồi thường được những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự.

Khắc phục hậu quả là khắc phục những thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp do hành vi phạm tội gây nên mà những thiệt này không thể bồi thường hay sửa chữa được. Ví dụ: Đối với trường hợp giết người, cố ý gây thương tích, người phạm tội tự nguyện đưa cho người bị hại hoặc đại diện của họ một khoản tiền mai táng, tiền chữa bệnh, tiền trợ cấp khó khăn về vật chất hoặc tinh thần… thì đó là tự nguyện khắc phục hậu quả. Không phải khắc phục hết mọi hậu quả thì mới được coi là tình tiết giảm nhẹ mà có thể người phạm tội chỉ khắc phục được một hoặc một số hậu quả cũng có thể coi là tình tiết giảm nhẹ, khắc phục càng nhiều thì được xem xét giảm nhẹ càng nhiều.

Người phạm tội phải tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả mới được coi là tình tiết giảm nhẹ. Nếu do tác động của người khác hoặc của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội buộc phải sửa chữa, bồi thường hoặc khắc phục hậu quả, người phạm tội mới thực hiện theo thì không được xem là tình tiết giảm nhẹ để áp dụng. Sự tự nguyện của người phạm tội bao gồm cả hành vi tác động đến gia đình, người thân, bạn bè… bồi thường thay cho mình trong lúc họ đang bị tạm giam giữ hoặc khi họ không có khả năng. Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì người giám hộ tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả sẽ được xem là tình tiết giảm nhẹ khi quyết định hình phạt đối với họ.

Việc tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả phải xảy ra trước khi tuyên án và thuộc ở cấp nào thì cấp đó coi là tình tiết giảm nhẹ. Ví dụ: Trước khi xét xử sơ thẩm, người phạm tội chưa tự nguyện bồi thường thiệt hại, nhưng trước khi xét xử phúc thẩm họ lại tự nguyện bồi thiệt hại thì tòa phúc thẩm coi đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm khi quyết định hình phạt.

Khi áp dụng tình tiết này, nếu người phạm tội chỉ tự nguyện sửa chữa thì xác định người phạm tội đã tự nguyện sửa chữa thiệt hại, không được xác định cả tình tiết bồi thường hoặc khắc phục hậu quả; nếu người phạm tội vừa tự nguyện sửa chữa, vừa tự nguyện bồi thường, vừa tự nguyện khắc phục hậu quả thì phải coi họ có cả ba tình tiết giảm nhẹ nếu hành vi của họ chỉ xâm phạm trực tiếp một khách thể. Ví dụ: A đốt nhà của B làm hư hỏng căn nhà và cháy toàn bộ tài sản có trong nhà. Sau khi sự việc xảy ra, A đã sửa lại nhà cho B và bồi thường toàn bộ số tài sản bị cháy, đồng thời giao nhà của mình cho gia đình B ở trong thời gian chưa sửa chữa xong nhà cho B.

Trên đây là toàn bộ tư vấn của Luật Rong Ba về điểm b khoản 1 điều 51 bộ luật hình sự. Nếu như bạn đang gặp phải khó khăn trong quá trình tìm hiểu về điểm b khoản 1 điều 51 bộ luật hình sự và những vấn đề pháp lý liên quan, hãy liên hệ Luật Rong Ba để được tư vấn miễn phí. Chúng tôi chuyên tư vấn các thủ tục pháp lý trọn gói, chất lượng, uy tín mà quý khách đang tìm kiếm. 

Messenger
Zalo
Hotline
Gmail
Nhắn tin